Ai đã khám phá ra dãy số Fibonacci

 

Ai đã khám phá ra dãy số Fibonacci?

Leonardo Pisano Bogollo, một nhà toán học người Ý, là người đã phát hiện ra quy luật của dãy số này và đặt tên là Fibonacci. Theo wiki, Fibonacci được ghép từ chữ filius Bonacci mang ý nghĩa : con của Bonaccio cũng chính là cha đẻ của nhà toán học.

Fibonacci cha đẻ của dãy số Fibonacci. Nguồn: Wiki

Nhờ có cha là 1 giám đốc cơ sở thương mại, trực thuộc 1 hải cảng ở phía đông Bắc Phi, nên ông đã đi tới đây để sinh sống và phụ việc cho cha ông. Tại đây, Fibonacci đã nhận ra số học bằng chữ Hindu đơn giản hơn chữ số La Mã, nên ông đã đi khắp Địa Trung Hải để học hỏi thêm từ các nhà toán học Ả Rập hàng đầu. Sau đó, tới năm 32 tuổi ông đã cho ra mắt cuốn sách Liber Abaci (Sách tính), cũng chính trong cuốn sách này có đưa ra 1 bài toán về các con thỏ, phép giải bài toán gồm 1 một chuỗi các con số, mà sau này ta quen gọi là dãy số Fibonacci.

Thực tế, dãy số Fibonacci đã được các nhà toán học Ấn Độ biết đến từ thế kỷ thứ 6, nhưng chỉ khi ông giới thiệu lại chúng trong cuốn Liber Abaci, thì dãy số Fibonacci mới được phương Tây biết đến và nổi tiếng đến ngày nay.

Dãy số Fibonacci là gì?

Đây là 1 dãy số vô hạn, được bắt đầu bởi số 0 và số 1, các số tiếp theo luôn bằng tổng của 2 số liền trước cộng lại.

Cụ thể dãy số Fibonacci sẽ là : 0,1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233, 377, 610…

Ngoài dãy số Fibonacci kể trên, tỷ lệ vàng hay số Pi (số Ф) là số “thần kỳ” tiếp theo được ông phát hiện ra.

Một số đặc điểm thú vị của dãy Fibonacci

  • Ngoại trừ 4 số đầu tiên, tỷ số của 1 số bất kỳ với số lớn hơn tiếp theo luôn xấp xỉ bằng.618 ví dụ : 3/5 = 0.6; 5/8 = 0.625; 8/13 = 0.615…
  • Tỷ số giữa hai số bất kỳ với số nhỏ hơn đều bằng 1.618  hoặc nghịch đảo của nó là 0.1618 ví dụ : 8/5 = 1.6; 13/8 = 1.625; 21/13 = 1.615…
  • Tỷ số giữa giữa các số xen kẽ cũng luôn xấp xỉ 2.618 hoặc nghịch đảo của nó là 0.382 ví dụ : 3/8 = 0.375;  8/21= 0.38; 55/21 = 2.619

Các bạn cũng để ý, các tỷ số tạo thành từ dãy Fibonacci như: 1.1618, 2.618, 0.382 chẳng hạn, đều được sử dụng trở thành các ngưỡng thoái lui hay các ngưỡng mở rộng để chốt lời, hoặc thoát lệnh khi tham gia giao dịch forex.

Tỷ lệ vàng là gì?

Tỷ lệ vàng là “tỷ số khi chia đoạn thẳng thành hai phần sao cho tỷ lệ giữa cả đoạn ban đầu với đoạn lớn hơn bằng tỷ số giữa đoạn lớn và đoạn nhỏ “, theo Wiki, xấp xỉ bằng 1,61803.

Vậy tỷ lệ vàng có mối quan hệ như thế nào với dãy số Fibonacci?

Đây quả thực là 1 sự trùng hợp vô cùng thú vị, khi trong dãy số Fibonacci, tỷ lệ giữa 2 số liên tiếp nhau luôn luôn gần bằng với 1,61803.

Ví dụ: 3/2=1,5; 5/3= 1,66; 8/5= 1,6; 13/8= 1,625…

Ngoài ra nếu các số trong dãy Fibonacci càng lớn thì tỉ số sẽ càng gần tỉ lệ vàng hơn.

Sở dĩ gọi là tỉ lệ vàng vì chúng được ứng dụng rất nhiều trong hội họa, nghệ thuật để tạo ra sự cân đối hài hòa, mang tính thẩm mỹ cao.

Ví dụ như tháp Eiffel dù trông cồng kềnh và to lớn đến như vậy, nhưng tỷ lệ giữa chiều cao phần thân chính với chiều ngang tháp cũng xấp xỉ 1,618!

Hay trong kích thước của cơ thể con người (chiều cao rốn, chiều cao toàn thân, chiều dài cẳng tay…)  nếu đạt tỷ lệ vàng thì chắc chắn trông sẽ cân đối và đẹp mắt. Rất nhiều các ngôi sao lớn trên thế giới như Tom Cruise, George Clooney, Brad Pitt, Nicole Kidman… cũng đều sở hữu khuôn mặt chuẩn theo tỷ lệ vàng.

Có lẽ đến chính bản thân nhà toán học tài ba nhất thời trung cổ, cũng không thể ngờ rằng việc phát hiện ra quy luật của dãy số Fibonacci cùng tỷ lệ vàng đã tạo ra rất nhiều ứng dụng và cảm hứng gần như cho toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống.

Gần như chỗ nào cũng có dấu vết của dãy số Fibonacci từ hình xoắn ốc trong bông hoa hướng dương, cánh hoa (đã bao giờ bạn để ý rằng hầu hết cánh hoa đều chỉ có 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55 hoặc 89 chưa, tất cả các con số này đều nằm trong dãy số Fibonacci).

Hay thậm chí là dải ngân hà cũng đi theo đúng 1 đường xoắn ốc bằng với tỷ lệ vàng của Fibonacci!

Rất rất nhiều thứ có trên đời đều tuân thủ theo tỷ lệ thần thánh Fibonacci này một cách đáng kinh ngạc, như là 1 quy luật được sắp xếp đến từ chính vũ trụ vậy!

Có bao nhiêu loại Fibonacci trong giao dịch forex?

Nếu sử dụng Tradingview bạn sẽ thấy Fibonacci có tất cả 10 loại gồm : Fibonacci thoái lui, Fibonacci mở rộng dựa trên xu hướng, Fibonacci kháng cự dạng quạt, Fibonacci vùng thời gian …

Về cơ bản, tất cả các đều kha khá giống nhau, cho nên bạn cũng không cần phải biết hết 10 dạng kể trên, thay vào đó chỉ tập trung tìm hiểu 2 loại Fibonacci là: Fibonacci thoái lui và Fibonacci mở rộng dựa trên xu hướng.

Cả hai dạng này kienthucforex đã có bài hướng dẫn khá chi tiết, nếu quan tâm bạn có thể tìm hiểu thêm tại đây :

Dãy Fibonacci được ứng dụng như thế nào trong forex?

Ngoài việc sử dụng Fibonacci như là 1 chỉ báo độc lập, thì dãy Fibonacci cũng là nền tảng toán học để tạo ra các nguyên lý sóng Elliott.

Không những vậy, các mẫu mô hình Harmonic cũng áp dụng theo dãy số Fibonacci.

Cụ thể trong giao dịch forex, chúng ta sẽ sử dụng các tỷ lệ gồm: 0 – 0.236 – 0.382 – 50 – 0.618 – 0.784 – 1–1.618 – 2.1618 – 3.618.

Tỷ lệ từ 0 đến 1 trong dãy số trên đều có tính đối xứng, khi cộng vào nhau luôn luôn bằng 1. Ví dụ : 0.236 + 0.784 = 1 hay 0.382 + 0.618 = 1.

Như trên chúng tôi có nói, bạn chỉ cần quan tâm 2 loại Fibonacci là Fibonacci Retracement (Fibo thoái lui) và Fibonacci Extension hay Fibonacci mở rộng dựa trên xu hướng. Với 2 dạng này các tỷ lệ sẽ được sử dụng cụ thể như sau:

Fibonacci Retracement hay Fibo thoái lui chúng ta sẽ chủ yếu sử dụng các tỷ lệ : 0 – 0.236 – 0.382 – 50 – 0.618 – 0.784 – 1.

Xét về mặt bản chất, Fibo thoái lui chỉ là các đường kháng cự và hỗ trợ nhưng được chia theo tỷ lệ của Fibonacci, trong số này các mức 0.382 – 50 – 0.618 là những mức thoái lui phổ biến nhất, với 1 thị trường có 1 xu hướng cấp 1 mạnh mẽ thì mức thoái lùi nhỏ nhất sẽ là 0.382 hay 38%, Trong một xu hướng yếu hơn, mức thoái lui tối đa sẽ là 0.618.

Trong đó, tỷ lệ 50 hay 50% là 1 trong những vùng cực kỳ quan trọng, tại đây như là 1 vùng ranh giới vì thế khi giá phá vỡ vùng này đồng nghĩa thị trường đang có thể suy yếu hoặc mạnh lên, các bạn cần phải cân nhắc để có thể vào lệnh hoặc thoát lệnh.

Với Fibonacci mở rộng dựa trên xu hướng, bạn sẽ chủ yếu sử dụng các tỷ lệ 0.618 – 0.784 – 1–1.618 – 2.1618 – 3.618.

Tại sao lại có các mức này, bởi trong 1 thị trường đôi khi giá giảm quá sâu, hoặc tăng quá mạnh, tiêu biểu như vàng ở thời điểm hiện tại, khi liên tiếp phá vỡ đỉnh cũ cách đây từ 10 năm trước, Vậy câu hỏi đặt ra, nếu vàng tiếp tục tăng, sẽ tăng đến mức nào?

Lúc này, Fibonacci mở rộng dựa trên xu hướng sẽ là công cụ giúp trả lời câu hỏi trên, để trader có thể tìm được các mức giá mà vàng hay bất kỳ sản phẩm nào có thể tăng hoặc giảm tiếp theo, nhằm phán đoán, giá có thể lên tới mới nào hay sẽ dừng cuộc chơi tại đâu.

Các bạn cũng lưu ý, không chỉ Tradingview mà ngay cả MT4 đều tích hợp sẵn công cụ vẽ Fibonacci, nên bạn chỉ cần làm sao hiểu thật rõ cách sử dụng chúng, không phải lo lắng làm sao có thể học thuộc hay biết cách tính toán để ra các tỷ lệ như tôi vừa kể trên.

Nhưng cho dù Fibonacci có thần thánh như thế nào đi chăng nữa cũng không thể đảm bảo được 100% thành công.

Cần phải kết hợp Fibonacci cùng với mô hình nến đảo chiều, các loại nến Nhậtđường trendline, đặc biệt là cần phải xác định đúng xu hướng để có thể sử dụng công cụ này hiệu quả nhất. Ngoài ra, bạn nên theo theo dõi các tin tức quan trọng thông qua lịch kinh tế trên forexfactory hoặc luôn cập nhật tin tức để tối ưu hóa lợi nhuận của bản thân!

Bạn cũng có thể tham khảo lớp học forex do chính kienthucforex biên soạn để có thể nâng cao kiến thức giao dịch forex bạn nhé. Chúc các bạn thành công!

VAI TRÒ CỦA NẾN NHẬT TRONG CÁC BIỂU ĐỒ GIAO DỊCH TÀI CHÍNH



The Biggest Stock Scams Of All Time


It is unfortunate, but words often associated with money and fortune are "cheat," "steal" and "lie." Who among us hasn't "accidentally" taken two $500 bills from the Monopoly bank, or forgotten at least once to pay $5 back to a friend? Chances are you were never called on it, because your friends trusted you. Just as we trust our friends, we put faith in the investing world. Investing in a stock takes a lot of research, but it also requires us to make a lot of assumptions. For example, we assume reported earnings and revenue figures are correct, and that management is competent and honest, but these assumptions can be disastrous. 


Understanding how disasters happened in the past, can help investors avoid them in the future. With that in mind, we'll look at some of the all-time greatest cases of companies betraying their investors. Some of these cases are truly amazing; try to look at them from a shareholder's standpoint. Unfortunately, these shareholders had no way of knowing what was really happening, as they were being tricked into investing.



ZZZZ Best Inc., 1986
Barry Minkow, the owner of this business, posited that this carpet cleaning company of the 1980s would become the "General Motors of carpet cleaning." Minkow appeared to be building a multi-million dollar corporation, but he did so through forgery and theft. He created more than 10,000 phony documents and sales receipts, without anybody suspecting anything. 

Although his business was a complete fraud, designed to deceive auditors and investors, Minkow shelled out more than $4 million to lease and renovate an office building in San Diego. ZZZZ Best went public in December of 1986, eventually reaching a market capitalization of more than $200 million. Amazingly, Barry Minkow was only a teenager at the time! He was sentenced to 25 years in prison. 

Centennial Technologies Inc., 1996 
In December 1996, Emanuel Pinez, the CEO of Centennial Technologies, and his management, recorded that the company made $2 million in revenue from PC memory cards. However, the company was really shipping fruit baskets to customers. The employees then created fake documents to appear as though they were recording sales. Centennial's stock rose 451% to $55.50 per share on the New York Stock Exchange (NYSE). 

According to the Securities and Exchange Commission (SEC), between April 1994 and December 1996, Centennial overstated its earnings by about $40 million. Amazingly, the company reported profits of $12 million, when it really lost about $28 million. The stock plunged to less than $3. Over 20,000 investors lost almost all of their investment in a company that was once considered a Wall Street darling. 

Bre-X Minerals, 1997 
This Canadian company was involved in one of the largest stock swindles in history. Its Indonesian gold property, which was reported to contain more than 200 million ounces, was said to be the richest gold mine, ever. The stock price for Bre-X skyrocketed to a high of $280 (split adjusted), making millionaires out of ordinary people overnight. At its peak, Bre-X had a market capitalization of $4.4 billion. 

The party ended on March 19, 1997, when the gold mine proved to be fraudulent and the stock tumbled to pennies, shortly after. The major losers were the Quebec public sector pension fund, which lost $70 million, the Ontario Teachers' Pension Plan, which lost $100 million, and the Ontario Municipal Employees' Retirement Board, which lost $45 million. 

Enron, 2001 
Prior to this debacle, Enron, a Houston-based energy trading company was, based on revenue, the seventh largest company in the U.S. Through some fairly complicated accounting practices that involved the use of shell companies, Enron was able to keep hundreds of millions worth of debt off its books. Doing so fooled investors and analysts into thinking this company was more fundamentally stable, than it actually was. Additionally, the shell companies, run by Enron executives, recorded fictitious revenues, essentially recording one dollar of revenue, multiple times, thus creating the appearance of incredible earnings figures. 

Eventually, the complex web of deceit unraveled and the share price dove from over $90 to less than 70 cents. As Enron fell, it took down with it Arthur Andersen, the fifth leading accounting firm in the world at the time. Andersen, Enron's auditor, basically imploded after David Duncan, Enron's chief auditor, ordered the shredding of thousands of documents. The fiasco at Enron made the phrase "cook the books" a household term, once again. 

WorldCom, 2002 
Not long after the collapse of Enron, the equities market was rocked by another billion-dollar accounting scandal. Telecommunications giant WorldCom came under intense scrutiny after yet another instance of some serious "book cooking." WorldCom recorded operating expenses asinvestments. Apparently, the company felt that office pens, pencils and paper were an investment in the future of the company and, therefore, expensed (or capitalized) the cost of these items over a number of years. 

In total, $3.8 billion worth of normal operating expenses, which should all be recorded as expenses for the fiscal year in which they were incurred, were treated as investments and were recorded over a number of years. This little accounting trick grossly exaggerated profits for the year the expenses were incurred; in 2001, WorldCom reported profits of around $1.3 billion. In fact, its business was becoming increasingly unprofitable. Who suffered the most in this deal? The employees; tens of thousands of them lost their jobs. The next ones to feel the betrayal were the investors who had to watch the gut-wrenching downfall of WorldCom's stock price, as it plummeted from more than $60 to less than 20 cents. 

Tyco International (NYSE: TYC), 2002
With WorldCom having already shaken investor confidence, the executives at Tyco ensured that 2002 would be an unforgettable year for stocks. Before the scandal, Tyco was considered a safe blue chipinvestment, manufacturing electronic components, health care and safety equipment. During his reign as CEO, Dennis Kozlowski, who was reported as one of the top 25 corporate managers byBusinessWeek, siphoned hordes of money from Tyco, in the form of unapproved loans and fraudulent stock sales. 

Along with CFO Mark Swartz and CLO Mark Belnick, Kozlowski received $170 million in low-to-no interest loans, without shareholder approval. Kozlowski and Belnick arranged to sell 7.5 million shares of unauthorized Tyco stock, for a reported $450 million. These funds were smuggled out of the company, usually disguised as executive bonuses or benefits. Kozlowski used the funds to further his lavish lifestyle, which included handfuls of houses, an infamous $6,000 shower curtain and a $2 million birthday party for his wife. In early 2002, the scandal slowly began to unravel and Tyco's share price plummeted nearly 80% in a six-week period. The executives escaped their first hearing due to a mistrial, but were eventually convicted and sentenced to 25 years in jail. 

HealthSouth (NYSE: HLS), 2003 
Accounting for large corporations can be a difficult task, especially when your boss instructs you to falsify earnings reports. In the late 1990s, CEO and founder Richard Scrushy began instructing employees to inflate revenues and overstate HealthSouth's net income. At the time, the company was one of America's largest health care service providers, experiencing rapid growth and acquiring a number of other healthcare-related firms. The first sign of trouble surfaced in late 2002 when Scrushy reportedly sold HealthSouth shares worth $75 million, prior to releasing an earnings loss. An independent law firm concluded the sale was not directly related to the loss, but investors should have taken the warning.

The scandal unfolded in March, 2003, when the SEC announced that HealthSouth exaggerated revenues by $1.4 billion. The information came to light when CFO William Owens, working with the FBI, taped Scrushy talking about the fraud. The repercussions were swift, as the stock fell from a high of $20 to a close of 45 cents, in a single day. Amazingly, the CEO was acquitted of 36 counts of fraud, but was later convicted on charges of bribery. Apparently, Scrushy arranged political contributions of $500,000, allowing him to ensure a seat on the hospital regulatory board. 

Bernard Madoff, 2008
Making for what could be an awkward Christmas, Bernard Madoff, the former chairman of the Nasdaq and founder of the market-making firm Bernard L. Madoff Investment Securities, was turned in by his two sons and arrested on Dec.11, 2008, for allegedly running a Ponzi scheme. The 70-year-old kept his hedge fund losses hidden, by paying early investors with money raised from others. This fund consistently recorded a 11% gain every year for 15 years. The fund's supposed strategy, which was provided as the reason for these consistent returns, was to use proprietary option collars that are meant to minimize volatility. This scheme duped investors out of approximately $50 billion. 

The Bottom Line
The worst thing about these scams, is that you never know until it's too late. Those convicted of fraud might serve several years in prison, which in turn costs investors/taxpayers even more money. These scammers can pick a lifetime's worth of garbage and not even come close to repaying those who lost their fortunes. The SEC works to prevent such scams from happening, but with thousands of public companies in North America, it is nearly impossible to ensure that disaster never strikes again. 

Is there a moral to this story? Sure. Always invest with care and diversify, diversify, diversify. Maintaining a well-diversified portfolio will ensure that occurrences like these don't run you off the road, but instead remain mere speed bumps on your path to financial independence. For further reading, see Playing The Sleuth In A Scandal Stock.

Can Keynesian Economics Reduce Boom-Bust Cycles


Why do economic downturns, such as the Great Depression, occur? How does an economy find itself in the perfect storm of high unemployment, a liquidity crisis and rapidly declining consumption? How can the effects of recessions and depressions be mitigated? For years economists struggled with these problems, but a British economist's ideas in the early twentieth century offered a possible solution. Read on to find out how John Maynard Keynes' theories changed the course of modern economics. 


Keynesian Economics
John Maynard Keynes (1883-1946) was a British economist educated in economics at the Universityof Cambridge. He was fascinated by mathematics and history, but eventually took interest in economics at the prompting of one of his professors, famed economist Alfred Marshall (1842-1924). After leaving Cambridge, he took up a variety of government positions, focusing on the application of economics to real world problems. He rose in importance during the World War I, and served as an advisor at conferences leading to the Treaty of Versailles. It was his 1936 book, "General Theory on Unemployment, Interest and Money", however, which would lay the foundations for his legacy:Keynesian economics.



The field of economics studied by Keynes at Cambridge focused on classical economics, whose founders included Adam Smith, the author of "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations" (1776). Classical economics focused on a laissez-faire approach to market corrections, and in some ways was still a relatively primitive approach to the field. Prior to classical economics, much of the world was still emerging from a feudal economic system, and industrialization had yet to fully take hold. Keynes' book essentially created the field of modern macroeconomics by looking at the roleaggregate demand plays. (Find out how five ground-breaking thinkers laid our financial foundations inHow Influential Economists Changed Our History.)



The Keynesian theory attributes the emergence of a depression to several factors:

  • The circular relationship between spending and earning (aggregate demand)
  • Savings
  • Unemployment

Aggregate Demand
Aggregate demand is the total demand for goods and services in an economy, and is often considered to be the gross domestic product (GDP) of an economy at a given point in time. It has four key components:

  • Consumption (by consumers who buy goods and services) - C
  • Investment (by businesses in order to produce more goods and services) - I
  • Government spending - G
  • Net exports (value of exports minus imports) - NX

Together, these components become C + I + G +NX, the formula for aggregate demand.



If one of the components decreases, another one of the components will have to increase in order to keep GDP at the same level. (To learn more, check out our related article Understanding Supply-Side Economics.)



Savings
Savings is was viewed by Keynes to have an adverse effect on the economy, especially if the savings rate is high or excessive. Because a major factor in the aggregate demand model is consumption, if individuals put money in the bank rather than buying goods or services, the GDP will fall. In addition, a decline in consumption leads businesses to produce less and require fewer workers, which increases unemployment. Businesses also are less willing to invest in new factories. 



Unemployment
One of the groundbreaking aspects of the Keynesian theory was its treatment of employment. Classical economics focused on the idea that markets settle at full employment. Keynes theorized, however, that wages and prices are flexible, and that full employment is not necessarily attainable or optimal. This means that the economy seeks to find a balance between the wages that workers demand and the wages that businesses can supply. If the unemployment rate falls, fewer workers are available to businesses looking to expand, which means that workers can demand higher wages. A point exists at which the business will no longer hire. 

Wages can be expressed in both "real" and "nominal" terms. Real wages take into account the effect of inflation, while nominal wages do not. To Keynes, businesses would have a hard time forcing workers to cut their nominal wage rates, and it was only after other wages fell across the economy or the price of goods fell (deflation) that workers would be willing to accept lower wages. In order to increase employment levels the real, inflation-adjusted wage rate would have to fall. This, however, could result in a deepening depression, lower sentiment and a decrease in aggregate demand. Additionally, Keynes theorized that wages and prices responded slowly (were "sticky") to changes in supply and demand. One possible solution was direct government intervention. (Take a deeper look into how employment is measured and perceived by certain markets in Surveying The Employment Report.) 



The Role of Governments
One of the primary players in the economy is the central government. It can influence the direction of the economy through its control of the money supply; both by its ability to alter interest rates or by buying back or selling government-issued bonds. In Keynesian economics the government takes an interventionist approach – it does not wait for market forces to improve GDP and employment. This results in the use of deficit spending.



As one of the components of aggregate demand function mentioned earlier, government spending can create demand for goods and services if individuals are less willing to consume and businesses less willing to build more factories. Government spending can use up the extra production capacity. Keynes also theorized that the overall effect of government spending would be "multiplied" if the businesses employed hire more people, and if the employees spend money through consumption.



It is important to understand that the role of the government in the economy is not solely to dampen the effects of recessions or pull a country out of a depression - it also must keep the economy from heating up too quickly. Keynesian economics suggests that the interaction between the government and the overall economy move in the opposite direction of the business cycle: more spending in a downturn, less spending in an upturn. If an economic boom creates high rates of inflation, the government could cut back its spending or increase taxes. This is referred to as fiscal policy. (Find out how current financial policies may effect your portfolio's future returns, in How Much Influence Does The Fed Have?)



Use of the Keynesian Theory
The Great Depression served as the catalyst that shot John Maynard Keynes into the spotlight, though it should be noted that he wrote his book several years after the Great Depression. During the early years of the Depression, many key figures, including then President Franklin D. Roosevelt, felt that the notion of the government "spending the economy to health" seemed too simple a solution. It was by placing the economy in terms of the demand for goods and services that made the theory stick. In his New Deal, Roosevelt employed workers in public projects, both providing jobs and creating demand for goods and services offered by businesses. Government spending also rapidly increased during the World War II, as the government poured billions of dollars into companies manufacturing military equipment.



The Keynesian theory was used in the development of the Phillips curve, which examines unemployment, and the ISLM Model.



   
Criticisms of Keynesian Theory
One of the more outspoken critics of Keynes and his approach was economist Milton Friedman. Friedman helped develop the monetarist school of thought (monetarism), which shifted its focus toward the role money supply has on inflation rather than the role of aggregate demand. Government spending can push out spending by private businesses because less money is available in the market for private borrowing, and monetarists suggested this be alleviated through monetary policy: the government can increase interest rates (making borrowing money more expensive) or sell Treasury securities (decreasing the amount of available funds for lending) to beat inflation. (For more on this, read Monetarism: Printing Money To Curb Inflation.)



Another criticism of the theory is that it leans toward a centrally planned economy. If the government is expected to spend funds to thwart depressions, it is implied that the government knows what is best for the economy as a whole. This eliminates the effects of market forces on decision-making. This critique was popularized by economist Friedrich Hayek in his 1944 work, "The Road to Serfdom". In the forward to a German edition of Keynes' book, it is indicated that his approach might work best in a "totalitarian state". 



Conclusion
While the Keynesian theory in its original form is rarely used today, its radical approach to business cycles and solutions to depressions had a profound impact on the field of economics. Today, many governments use portions of this theory to smooth out the boom-and-bust cycles of their economies, and economists combine Keynesian principles with macroeconomics and monetary policy to determine what course of action to take. 

The History Of Economic Thought




The History Of Economic Thought


Economics is the science that concerns itself with economies, from how societies produce goods and services, to how they consume them. It has influenced world finance at many important junctions throughout history and is a vital part of our everyday lives. The assumptions that guide the study of economics, have changed dramatically throughout history. In this article, we'll look at the history of how economic thought has changed over time, and the major participants in its development. 

Tutorial: Economics Basics

The Father of Economics
Adam Smith is widely credited for creating the field of economics, however, he was inspired by French writers, who shared his hatred of mercantilism. In fact, the first methodical study of how economies work, was undertaken by these French physiocrats. Smith took many of their ideas and expanded them into a thesis about how economies should work, as opposed to how they do work. 

Smith believed that competition was self-regulating and that governments should take no part in business through tariffstaxes or any other means, unless it was to protect free-market competition. Many economic theories today are, at least in part, a reaction to Smith's pivotal work in the field. (For more on this influential economist, see Adam Smith: The Father Of Economics.)

The Dismal Science of Marx and Malthus
Karl Marx and Thomas Malthus had decidedly poor reactions to Smith's treatise. Malthus predicted that growing populations would outstrip the food supply. He was proven wrong, however, because he didn't foresee technological innovations that would allow production to keep pace with a growing population. Nonetheless, his work shifted the focus of economics to the scarcity of things, versus thedemand for them. (For related reading, see Economics Basics: Demand and Supply.)

This increased focus on scarcity led Karl Marx to declare that the means of production were the most important components in any economy. Marx took his ideas further and became convinced that a class war was going to be initiated by the inherent instabilities he saw in capitalism. However, Marx underestimated the flexibility of capitalism. Instead of creating a clear owner and worker class, investing created a mixed class where owners and workers hold the interests of both classes, in balance. Despite his overly rigid theory, Marx did accurately predicted one trend: businesses grew larger and more powerful, in accordance to the degree of free-market capitalism allowed. (For more insight, see History Of Capitalism.) 

Speaking in Numbers
Leon Walras, a French economist, gave economics a new language in his book "Elements of Pure Economics." Walras went to the roots of economic theory and made models and theories that reflected what he found there. General equilibrium theory came from his work, as well as the tendency to express economic concepts statistically and mathematically, instead of just in prose.Alfred Marshall took the mathematical modeling of economies to new heights, introducing many concepts that are still not fully understood, such as economies of scalemarginal utility and the real-cost paradigm. 

It is nearly impossible to expose an economy to experimental rigor, therefore, economics is on the edge of science. Through mathematical modeling, however, some economic theory has been rendered testable. (For more, read What Are Economies Of Scale? and Economics Basics: Utility.)

Keynesian Economics
John Maynard Keynes' mixed economy was a response to charges levied by Marx, long ago, that capitalist societies aren't self-correcting. Marx saw this as a fatal flaw, whereas Keynes saw this as a chance for government to justify its existence. Keynesian economics is the code of action that theFederal Reserve follows, to keep the economy running smoothly. (To learn about how the Fed does this, see The Federal Reserve.)

Back to the Beginning: Milton Friedman 
The economic policies of the last two decades all bear the marks of Milton Friedman's work. As theU.S. economy matured, Friedman argued that the government had to begin removing the redundant controls it had imposed upon the market, such as antitrust legislation. Rather than growing bigger on the increasing gross domestic product (GDP), Friedman thought that governments should focus on consuming less of an economy's capital, so that more remained in the system. With more capital in the system, it would be possible for the economy to operate without any government interference. (For more on Friedman and his work, see Free Market Maven: Milton Friedman.)

The Bottom Line
Economic thought has diverged into two streams: theoretical and practical. Theoretical economics uses the language of mathematics, statistics and computational modeling to test pure concepts that, in turn, help economists understand the truths of practical economics and shape them into governmental policy. The business cycleboom and bust cycles, and anti-inflation measures, are outgrowths of economics; understanding them helps the market and government adjust for these variables. 

Các nhà kinh tế học đã thay đổi lịch sử của chúng ta như thế nào


Có một câu chuyện hài hước về các nhà kinh tế học như thế này: có ba nhà kinh tế học đi săn vịt, người thứ nhất bắn từ phía trước con vịt, cách nó 20 mét, người thứ hai bắn từ phía sau con vịt, cách nó 20 mét, còn người thứ ba thì nói rằng "Tuyệt thật, thế là chúng  ta đã có vịt để ăn".
Giờ thì hãy gác chuyện hài này sang một bên, và thừa nhận một thực tế rằng có rất nhiều nhà kinh tế học đã làm được những điều không ai tin nổi, cũng có một số người đã có những đóng góp to lớn cho lịch sử ngành tài chính cũng như mang lại những giá trị lớn lao cho xã hội. Trong bài viết này xin được giới thiệu đôi nét về 5 nhà kinh tế học vĩ đại, và những cống hiến to lớn của họ cho lịch sử.
Ông là một nhà triết học và là một nhà kinh tế chính trị học người Scotlen. Ông nổi tiếng bởi cuốn sách "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" - The wealth of nation (1776) đây là một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất và nổi tiếng nhất về thương mại và công nghiệp, được công nhận là có đóng góp to lớn cho các nguyên lý kinh tế học hiện đại.smith.gif
Adam Smith kịch liệt phản đối chủ nghĩa trọng thương và ủng hộ cho tự do thương mại, và chính điều này là một thách thức đối với những hàng rào thuế quan bảo hộ đương thời. Adam Smith đôi khi còn được coi là cha đẻ của thương mại hiện đại trong nền kinh tế toàn cầu. Hãy thử tưởng tượng xem cuộc sống này sẽ tẻ nhạt và nhịp sống này sẽ chậm rãi biết bao nhiêu nếu hoạt động ngoại thương bị ngăn cấm. Vào giai đoạn cuối đời, phần lớn các bản thảo của Smith đã bị hủy, chỉ còn lại một số tác phẩm, vì thế chúng ta đã không có cơ hội để chạm đến các tác phẩm cuối cùng của ông. 
Những đóng góp của Ricardo cho lịch sử kinh tế học có lẽ mang tính thực tiễn nhiều hơn Smith. Ngay từ năm 14 tuổi, Ricardo đã theo cha lên làm việc trên sàn chứng khoán London (London Stock Exchange), và nhanh chóng trở thành một bậc thầy trong đầu cơ chứng khoán và bất động sản.
Ông là người con thứ 3  trong một gia đình Bồ Đào Nha gốc Do Thái có 17 người con. Có lẽ chính gia đình ông là nguồn động lực rất mạnh mẽ thúc đẩy ông trên con đường sự nghiệp. Sau khi đọc cuốn sách của Adam Smith có tựa đề "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" vào năm 1799, Ricardo ngay lập tức cảm thấy yêu thích kinh tế học, mặc dù đến tận 10 năm sau đó bài báo đầu tiên về kinh tế của ông mới được đăng tải. Ricardo được cả thế giới biết tới bởi quan điểm cho rằng các quốc gia trên thế giới nên tiến hành chuyên môn hóa để đạt được lợi ích lớn hơn. Ông cũng đồng thời đưa ra những lập luận phản đối chủ nghĩa bảo hộ, tuy nhiên những quan điểm giá trị nhất của Ricardo là về các khoản thuế, thuê nhà đất, lương bổng và lợi nhuận bằng cách chỉ ra rằng các chủ đất đã cướp không của cải của người lao động, và tô thuế thì nói chung chẳng ích gì cho xã hội.
ricardo.jpg
Năm 1819 Ricardo trở thành thành viên của nghị viện Anh, đại biểu cho một thành phố của Ireland. Một thiệt thòi đối với Ricardo cũng như cả thế giới đó là ông đã sống một cuộc đời quá ngắn ngủi. Tác phẩm vĩ đại của ông mang tên "Bàn luận về ảnh hưởng của giá cả thấp tới lợi nhuận chứng khóan" (Essay on the Influence of a Low Price of Corn on the Profits of Stock - 1815) là tiếng nói đấu tranh yêu cầu chính phủ Anh bãi bỏ các điều luật hạn chế sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia.

3. Alfred Marshall (1842 to 1924)
Marshall sinh tại London, và mặc dù ước muốn ban đầu của ông là trở thành một thầy tu, nhưng những thành công của ông tại trường đại học Cambridge đã đưa ông đến với con đường nghiên cứu và học thuật. Marshall có thể là một trong những nhà kinh tế ít được biết tới nhất trong số các nhà kinh tế học vĩ đại bởi ông không phải là tác giả của bất cứ một lý thuyết kinhMarshall.jpg tế kinh điển nào, tuy nhiên ông rất đáng được vinh danh bởi những nỗ lực nhằm áp dụng phương pháp toán học vào kinh tế, biến kinh tế học thành một môn khoa học thực sự chứ không chỉ mang tính triết học đơn thuần.
Mặc dù chú trọng vào toán học, Marshall vẫn cố gắng để đưa các tác phẩm của mình tới được với những người bình thường. Cuốn sách có tựa đề "Economics of Industry" xuất bản năm 1879 sau đó đã được giảng dạy nhiều tại các trường đại học của Anh và trở thành một trong các môn học chính thống. Sau đó Marshall đã  phải mất gần 10 năm để hoàn tất tác phẩm "Nguyên lý kinh tế học" - 1890 và được công nhận là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông, trong đó những mô hình đường cung, đường cầu, chi phí biên, lợi nhuận biên....đã được tập hợp và biểu diễn một cách hệ thống và logic, làm nền tảng cho các mô hình kinh tế sau này.
4. John Maynard Keynes (1883 to 1946)Mọi người đôi khi gọi ông là gã khổng lồ không chỉ bởi thân hình cao lớn của ông mà còn bởi những đóng góp lớn lao của ông cho lịch sử kinh tế tài chính. Keynes đã nhận chức vụ giảng viên tại trường đại học Cambridge mà vị trí này lại được chính Alfred Marshall tài trợ. Ông còn được biết tới vì đã ủng hộ chính phủ can thiệp vào chính sách tiền tệ để giảm thiểu những tác động tiêu cực của suy thoái, khủng hoảng cũng như bùng nổ kinh tế. Trong suốt cuộc chiến keynes.jpgtranh thế giới thứ I, ông làm việc dưới sự bảo trợ của quân đội anh và quân đồng minh, sau đó là đại diện tại hiệp ước hòa bình ký kết tại Versailles.
Keynes đã gần như bị trắng tay sau cuộc đại khủng hoảng năm 1929, nhưng sau đó ông lại tìm được cơ may cho chính mình. Năm 1936 ông cho xuất bản cuốn sách "General Theory of Employment, Interest and Money" (Lý thuyết chung về lao động, lãi suất và tiền tệ) như là một lời đáp trả đối với cuộc đại suy thoái, khuyến khích chính phủ chi tiêu nhiều hơn nữa để thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư. Đây cũng được coi là bước khởi đầu của lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
5. Milton Friedman (1912 - 2006)
Milton Friedman là người con thứ 4 trong gia đình Do Thái nhập cư từ Austria-Hungary. Sau khi lấy được bằng cử nhân nghệ thuật tại Rutgers và bằng thạc sĩ tại đại học Chicago, ông làm việc cho  New Deal - một loạt các dự án do tổng thống Franklin D. Roosevelt đề ra để tăng cường niềm tin của dân chúng đối với sự hồi phục kinh tế sau cuộc đại suy thoái. Mặc dù thu được nhiều lợi ích từ New Deal song Friedman lại phản đối lại các chương trình cũng như biện pháp kiểm soát giá cả của nhà nước.
Milton Friedman ủng hộ việc giảm thiểu vai trò của nhà nước trong một thị trường tự do, tạo ra milton.jpgsự thông thoáng trong môi trường chính trị và xã hội. Ý tưởng này đã được thể hiện rõ thông qua cuốn sách "Capitalism and Freedom"  (Chủ nghĩa tư bản và tự do) xuất bản năm 1962. Có lẽ điều làm cho người ta nhớ đến ông nhiều nhất đó là những nỗ lực của ông trong việc thúc đẩy việc hình thành một thị trường tự do và thị trường tiền tệ hiện đại. Năm 1976 Friedman đoạt giải Nobel về khoa học kinh tế, năm 1988 ông có bài phát biểu trước các sinh viên và học giả Trung Quốc tại San Francisco và đây được coi là một phần trong quá trình cải cách kinh tế của Trung Quốc.
Milton Friedman đã đóng ba vai trò trong đời sống tri thức thế kỷ 20. Một Friedman nhà kinh tế của các nhà kinh tế, người đã viết những phân tích mang tính kỹ thuật và ít nhiều không mang tính chính trị về hành vi của người tiêu dùng và lạm phát. Một Friedman người rao bán chính sách, người đã tham gia vận động cho chính sách trọng tiền trong nhiều thập kỷ - cuối cùng cũng chứng kiến Cục dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung ương Anh đã làm theo học thuyết của ông vào cuối thập niên 70, rồi từ bỏ một vài năm sau đó vì nó không thể vận hành trơn tru. Cuối cùng, là một Friedman nhà tư tưởng, người truyền bá vĩ đại học thuyết về thị trường tự do.
choice_driven.jpg

Tất cả những nhà kinh tế học trên đây đã có những ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đối với thế giới nhưng chỉ có thời gian mới có thể cho chúng ta biết họ đã ảnh hưởng tới những nhà kinh tế học đương đại như thế nào, ảnh hưởng và góp phần hình thành nên thế giới của chúng ta ra sao. Có rất nhiều các nhà kinh tế học đang từng ngày từng giờ làm việc cật lực để đưa ra những ý tưởng, những nguyên lý kinh tế mà họ thấy sẽ có ích cho xã hội. Có những người đã được vinh danh và tên tuổi cũng như công trình của họ còn mãi, có những người tên tuổi bị lãng quên dần theo thời gian. Tuy nhiên, những nỗ lực nhằm tạo ra một xã hội tốt đẹp cho tất cả mọi người thì bao giờ cũng sống mãi.
Copyright 2011 KEYNES PHÚC.
Blogger Template by Noct. Free Download Blogger Template