CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Câu 1: Phân tích bối cảnh xuất hiện của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII và sau đó bị suy đồi. Có thể nói, nó ra đời trong bối cảnh hết sức thuận lợi khi mà phương thức sản xuất phong kiến bắt đầu tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời:
+ Về mặt lịch sử:
Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương.
+ Về kinh tế:
Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực Do đó trong thời kỳ này thương nghiệp có vai trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.
+ Về mặt chính trị:
Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.
+ Về phương diện khoa học tự nhiên:
Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Crixtốp Côlông tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả năng làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây.
+ Về mặt tư tưởng, triết học:
Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…
Câu 2: Phân tích những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa trọng thương.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương bao gồm 4 quan điểm cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, họ đánh giá cao vai trò của tiển tệ.
Họ đồng nhất tiền tệ với của cải, cho rằng tiền tệ mới là tài sản thực sự của một quốc gia, một nước càng có nhiều tiền thì càng giàu có, sự giàu có tích lũy dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn. Đồng thời coi hàng hóa chỉ là phương tiện nhằm gia tăng khối lượng tiền tệ, mục đích của mọi chính sách kinh tế của một quốc gia là làm tăng khối lượng tiền tệ.
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái đầu tiên coi trọng vai trò của tiền tệ trong lịch sử kinh tế.
- Thứ hai, quan niệm về nghề nghiệp trong xã hội.
Họ cho rằng, nghề nghiệp nào trong xã hội làm gia tăng khối lượng tiền tệ mới là những ngành nghề có ý nghĩa tích cực và ngược lại. Cụ thể:
- Nông nghiệp là ngành trung gian giữa tích cực và tiêu cực vì sản phẩm đầu ra sản phẩm vật chất song không phải mua các yếu tố đầu vào như vậy tuy không tạo ra nhưng cũng k tiêu tốn tiền tệ.
- Công nghiệp là ngành nghề mang tính tiêu cực vì phải bỏ tiền ra mua các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm vật chất.
- Thương nghiệp là ngành duy nhất trong xã hội có ý nghĩa tích cực và tạo ra của cải trong xã hội, vì sản phẩm đầu vào là sản phẩm vật chất và thu lại tiền tệ.
Trường phái trọng thương k chỉ đánh giá cao vai trò của thương nghiệp cụ thể còn nhấn mạnh vai trò của ngoại thương, khối lượng tiền tệ của một quốc gia chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương, đặc biệt là ngoại thương xuất siêu.
- Thứ ba, họ giải thích nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
Họ giải thích rằng lợi nhuận của thương nghiệp là kết quả của hoạt động trao đổi không ngang giá (mua rẻ bán đắt), là sự lừa gạt cướp bóc giống như trong chiến tranh. Họ cho rằng k một người nào thu đc lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác, trao đổi phải có một bên thua để bên kia đc. Dân tộc này làm giàu bằng cách hi sinh lợi nhuận của dân tộc khác.
- Thứ tư, chủ nghĩa trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước
Chủ nghĩa trọng thương chưa biết đến và không thừa nhận sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan do đó họ đánh giá rất cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng phát triển.
Câu 3: Chủ nghĩa trọng thương tại các quốc gia.
v Chủ nghĩa trọng thương tại Anh:
Chủ nghĩa trọng thương ở Anh chia làm 2 giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1 diễn ra trong thế kỉ XV-XVI gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ
- Giai đoạn 2 diễn ra trong thế kỉ XVI gọi là giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.
- Giai đoạn học thuyết tiền tệ.
Đại biểu của học thuyết tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương thời kì này là William Stafford (1554-1612).
Quan điểm trọng thương của ông được trình bày trong tác phẩm “ Trình bày tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào chúng ta” Trong tác phẩm này ông cho rằng nguyên nhân của sự đắt đỏ nằm ở vấn đề khối lượng tiền trong nền kinh tế. Vì thế, Nhà Nước cần phải có các biện pháp hành chính tác động vào quá trình lưu thông nhằm giữ khối lượng tiền khỏi bị hao hụt.
Nội dung chủ yếu là bảng cân đối tiền tệ: ngăn chặn không cho tiền chạy ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền vàng từ nước ngoài về.
Biện pháp:
- Quy định tiền của nước Anh là vàng
- Chống lại mọi hành vi đem tiền ra ngoài; các thương gia nước ngoài vào nước Anh đc khuyến khích mang tiền vào nhưng không đc mang tiền ra khỏi nước Anh mà phải mua hàng hóa mang ra.
- Cấm nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết.
- Xâm chiếm, mở rộng thuộc địa để tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng nhiều biện pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.
- Giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.
Đại biểu của học thuyết về bảng cân đối thương mại là Thomas Mun (1571-1641) “Của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ được chuyển thành tiền ở thị trường nước ngoài”.
Nội dung chủ yếu:
- Muốn giàu có phải tung tiền vào lưu thông, không được giữ tiền lại.
- Phải biết xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán : “ Vàng đẻ ra thương mại, thương mại làm phát triển số tiền lên”.
- Phải đẩy mạnh hoạt động thương mại: “ Đó là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của một quốc gia”, “ Không có phép lạ nào khác kiếm tiền ngoài thương mại”.
- Trong thương mại “hàng năm, chúng ta cần giữ một nguyên tắc là bán cho người nước ngoài một số lượng lớn hơn khối lượng hàng hóa mua vào”.
- Cần mở rộng cơ sở nguyên liệu cho công nghiệp bằng ngoại thương (nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài kết hợp với sức lao động trong nước nhằm phát triển sản xuất trong nước).
- Thu hẹp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng.
- Đẩy mạnh cạnh tranh làm giá cả hàng hóa hạ xuống và nâng cao chất lượng hàng hóa nội địa.
- Trong ngoại thương, cần mở rộng thị trường bằng việc biết bán hàng với giá cả thấp.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa trọng thương phát triển nhất, có tính chất thực tiễn, thể hiện rõ ràng khát vọng của giai cấp tư sản Anh trong thời kì tích lũy tư bản
v Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.
- Quan điểm của nhà kinh tế Antoine de Montchretien (1575 – 1629).
Quan điểm:
Quan điểm mang màu sắc tiểu tư sản, thông cảm với quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân bị đè nặng dưới ách phong kiến, lên án sự xa hoa của giới quý tộc. Nông dân là chỗ dựa cho Nhà nước và Nhà nước phải quan tâm đến nông dân. Ông khẳng định “tài sản của đất nước không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả dân số đặc biệt dân số nông nghiệp”.
Ông cho rằng thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành nghề khác nhau. Thương nhân giữ vai trò liên kết người sản xuất với nhau.
Lợi nhuận thương nghiệp là chính đáng vì nó bù đắp sự rủi ro thua thiệt trong việc giao dịch mua bán.
Ông viết “hạnh phúc của người ta là ở sự giàu có mà sự giàu có là ở trong lao động” ông lên án sự lười biếng, coi đây là nguồn gốc của mọi tội lỗi và cho rằng nếu cần thiết sẽ cưỡng chế những người trong độ tuổi phải có việc làm.
Biện pháp:
Hàng hóa nước ngoài bị đẩy ra khỏi nước Pháp, tăng cường thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước và ngành thương mại, để nước Pháp có thể tự cung tự cấp. Các nhà sản xuất vải lanh Hà Lan phải kết thúc hoạt động ở Pháp, cấm nhập khẩu sản phẩm dệt của Anh. Thậm chí sách nước ngoài cũng bị cấm để ngăn chúng “đầu độc tinh thần chúng tôi”.
Cho thành lập rất nhiều công trường thủ công sản xuất các sản phẩm theo mẫu của nước ngoài nhằm tạo việc làm cho người dân lang thang thất nghiệp.
- Quan điểm của nhà kinh tế Jean Baptiste Colbert (1619 – 1683).
Quan điểm:
Là bộ trưởng tài chính nước Pháp, ông đã xây dựng được cho nước Pháp một chính sách kinh tế trong 100 năm. Chính sách kinh tế này phản ánh quan điểm trọng thương của ông trong khuôn khổ thúc đẩy sự phát triển của công trường thủ công tư bản nhưng lại không quan tâm đúng mức sự phát triển của nông nghiệp. Theo ông, ngoại thương có khả năng làm cho thần dân được sung túc và thỏa mãn được các nhu cầu của vua chúa. Sự vĩ đại và hùng cường của một quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định.
Biện pháp:
Cũng giống như Antoine de Montchretien, mục tiêu của Jean Baptiste Colbert cũng là xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp cho nước Pháp.
- Ông khuyến khích hoạt động sản xuất thủ công nghiệp trong nước bằng các biện pháp trợ cấp và thuế quan, quy định một cách rõ ràng chất lượng và giá cả của sản phẩm sản xuất ra. Ông cho thành lập các ngành công nghiệp mới, khuyến khích và đãi ngộ các nhà khoa học, mời các nhà khoa học hoặc công nhân có tay nghề nước ngoài sang Pháp.
- Đối với thương mại quốc tế, ông coi đây là con đường làm giàu cho đất nước vì thế đưa ra hàng loạt các đặc quyền cho các chủ xưởng sản xuất hàng xuất khẩu. Dưới sự giám sát của ông, hàng hóa muốn nhập khẩu vào nước Pháp phải chịu rất nhiều quy định về thuế quan và chất lượng hà khắc.
- Ông cho cải thiện chất lượng đường giao thông và hệ thống kênh mương trên khắp nước Pháp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho lưu thông hàng hóa phát triển thương mại.
- Tuy nhiên, đối với ngành nông nghiệp, Colbert đã có nhiều sai lầm làm cho nông nghiệp bị sa sút như chính sách hạ giá hàng nông phẩm, bắt bán lúa gạo vs bất kì giá nào, khi đã mang ra thị trường thì không được chở về nhà.
Câu 4: Đánh giá câu nói của người Trung Quốc: “Phi thương bất phú” liên hệ thực tế Việt Nam.
Câu nói trên thể hiện rõ quan điểm nghê nghiệp của chủ nghĩa trọng thương, đó là nghề nghiệp nào trực tiếp đem lại khối lượng tiền tệ cho xã hội mới là nghề nghiệp “làm giàu” cho quốc gia và cho cá nhân. Ở đây, họ đã quá xem trọng vai trò của thương nghiệp, xem thường các ngành sản xuất vật chất.
Điều này chỉ đúng trong bối cảnh tích lũy tư bản, chủ nghĩa trọng thương phồn thịnh mà thôi.
Bởi lẽ, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất của con người, nó ảnh hưởng đến tốc độ và quy mô của hoạt động thương nghiệp. Nếu nền sản xuất vật chất không phát triển thì sẽ không có hàng hóa để bán và cũng không thu được tiền tệ để mua các hàng hóa khác.
Liên hệ thực tiễn:
Xuất phát từ một nền kinh tế của nước ta còn lạc hậu, thương mại không tăng (cả về nội thương lẫn ngoại thương). Đã có thời kì chúng ta thực hiện c/s “bỏ quan trả cán” để kìm hãm sự phát triển kinh tế =) làm cho kinh tế thụt lùi so với thế giới. Nếu kinh tế chỉ huy theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho thương mại kém phát triển cả về nội thương và ngoại thương =) nền kinh tế yếu kém.
Đến đại hội Đảng VI (86) Nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa =) đòi hỏi phải tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương =) có c/s n/thương của mình. Sau >25 năm thực hiện đổi mới đất nước đã thu được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, chứng tỏ quản điểm trọng thương là đúng dắn, phải có giao lưu với nước ngoài mới có điều kiện sản xuất trong nước, tăng tích luỹ vốn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không coi thương mại là con đường làm giầu duy nhất, vì quan điểm trọng thương chỉ quan tâm đến một lĩnh vực của kinh tế trong sản xuất đó lá lưu thông mà thôi. Mà ta cần phải biết kết hợp giữa tăng trọng thương với gia tăng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nước ta gia nhập WTO, việc phát triển thương mại nhất là ngoại thương là rất cần thiết. Nó không chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền Kinh tế mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nc, tạo đk cho sự tăng trưởng nhanh nền Kinh tế dân tộc. Ngoài ra, VN chúng ta đứng trước cơ hội và thách thức rất lớn, đó là cơ hội phát triển mạnh mẽ thương nghiệp, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước đồng thời các ngành sản xuất trong nước phải đối mặt vs sự cạnh tranh rất lớn của các doanh nghiệp nước ngoài.Vì vậy, chúng ta phải làm tốt cả 2 nhiệm vụ là thúc đẩy lưu thông hàng hóa đồng thời củng cố và phát triển mạnh mẽ nền sản xuất trong nước.
Câu 5: Đánh giá câu nói của người Anh: “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối vs sự phồn thịnh của 1 quốc gia, không có phép lạ nào khác để kiếm tiền trừ thương mại”
- Giải thích
Thomas Mun(1571-1614) là nhà Kinh tế học Anh,giám đốc cty Đông Ấn-cty cổ phần đầu tiên trên thế giới và lớn nhất nc Anh thời đó.
Theo ông, chỉ có thương mại mới là phương thức để kiếm tiền, tạo ra của cải, còn các hđộng khác như công nghiệp, nông nghiệp ko tạo ra tiền mà chỉ là phương tiện để có nhiều tiền mà thôi. Thương mại càng đc mở rộng thì càng có nhiều cơ hội kiếm tiền, quốc gia càng giàu có. Sự phát triển của thương mại là thước đo duy nhất đo sự phồn thịnh của 1 quốc gia.
Thương mại đẻ ra tiền, tiền lại đẻ ra thương mại. Phải thực hiện bán nhiều hơn mua, phải mở rộng xuất khẩu và phải xuất siêu. Ông đề nghị: “Chúng ta phải thường xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho ng nc ngoài vs số lượng HH lớn hơn số lượng mà chúng ta phải mua của họ”, tức là phải xuất siêu.
Tư tưởng cơ bản của luận điểm trên cho thấy, Thomas Mun đã tuyệt đối hóa vai trò của thương mại trong hoạt động Kinh tế cũng như trong tích lũy tiền. Ông là 1 đại biểu của CNTT trong g/đoạn phát triển thật sự của nó.
- Đánh giá
Thomas Mun đã phát hiện ra vai trò của thương mại trong việc tạo ra của cải. Thật vậy, mục đích của sản xuất hàng hóa là để bán.Nếu ko có thương mại (thực chất là lưu thông) thì hàng hóa ko thể thực hiện đc, ko thể thu hồi chi phí sản xuất và tích lũy tiền tệ, do đó ko thể có tái sản xuất nói chung và tái SX mở rộng nói riêng.
Trong đk toàn cầu hóa,hội nhập kinh tế quốc tế và khi VN đã gia nhập WTO như hiện nay, việc phát triển thương mại, nhất là ngoại thương là rất cần thiết đối vs các nc nói chung và nc ta nói riêng. Nó ko chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền Kinh tế mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nc, tạo đk cho sự tăng trưởng nhanh nền Kinh tế dân tộc.
Tuy nhiên, vế thứ 2 “không có phép lạ…” của Thomas Mun có tính phiến diện. Trong khi đề cao vai trò của thương mại, lại ko thấy đc vai trò quyết định của SX, ko thấy đc mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông. Bởi vậy trong nhận thức và tổ chức thực tiễn, việc đề ra giải pháp phát triển thương mại nhất thiết phải đc đặt trong mối quan hệ gắn bó vs SX.
Câu 6: Giải thích luận điểm của A. Montchretien: “ Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải nhập dẫn của cải qua ngoại thương”
Chủ nghĩa trọng thương họ coi trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo tiêu chuẩn của sự giàu có và mọi sự hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đich kinh tế của mỗi nước đó là phải tăng kl tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có; họ coi hàng hoá chỉ là phương tiện tăng khối lượng tiền tệ. Họ coi tiền là đại biểu duy nhất của của cải, tiêu chuẩn để đánh giá mọi hinh thức hành nghề hoạt động nghề nghiệp, những hoạt động nào mà không dẫn đến tích luỹ tập thể là hoạt động không có lợi, hoạt động tiêu cực. Họ coi nghề nông là một nghề trung gian những hoạt động tích cực và tích cực vì nghề nông không làm tăng hay giam của cải, hoạt động chủ nghĩa thì không thể là nguồn gốc của cải (trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc).
Ngoại thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, không có ngoại thương không thể tăng được của cải . Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng tiền nước ngoài vào trong nước
Đối với ông, khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương cụ thể là xuất siêu. Lợi nhuận từ ngoại thương chính là việc mua rẻ hàng hóa trong nước và bán đắt cho các quốc gia khác thu về một lượng tiền tệ. Chính vì thế ngoại thương là máy bơm đưa tiền từ nước ngoài vào nền kinh tế trong nước.
“Nội thương là ống dẫn” bởi nội thương chỉ có tác dụng làm di chuyển của cải và hàng hóa trong nước từ người này sang người khác, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác.
Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem nhẹ nội thương vì ông chỉ chú ý đến lĩnh vực lưu thông (T-H-T) mà chưa hiểu được toàn bộ quá trình sản xuất và bước chuyển của việc tạo ra lợi nhuận đó là do gia tăng sản xuất =) giải pháp số một là tăng cả nội thương và ngoại thương.
Tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho công ty thương mại độc quyền buôn bán với nước ngoài.
Câu 7: Nhận xét vai trò, hạn chế của chủ nghĩa trọng thương.
v Về mặt thực tiễn:
- Vai trò:
Những chính sách kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đưa ra như đẩy mạnh ngoại thương, trợ giúp tài chính tín dụng, bảo hộ thuế quan… tạo ra nguồn vốn ban đầu rất lớn cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình tích lũy tư bản, rút ngắn thời kì quá độ từ phong kiến lên tư bản.
- Hạn chế: k có hạn chế về mặt thực tiễn.
v Về mặt lí luận:
- Vai trò:
Trường phái trọng thương đã đặt nền móng cho các lí thuyết kinh tế sau này như: lí thuyết tiền tệ, lí thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong chính sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được trích dẫn trong Kinh thánh:
- Thời kì phong kiến giải thích các hiện tượng kinh tế bằng thần bí tôn giáo còn CNTT đã dựa vào tài liệu lịch sử, sự kiện có thật để phân tích kinh tế;
- Thời kì phong kiến xem xét của cải nặng về mặt hiện vật còn CNTT đã xem xét của cải theo quan niệm giá trị;
- CNTT còn thấy đc mục đích của sản xuất và trao đổi hàng hóa là lợi nhuận.
- Hạn chế:
Những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương rất ít tính lí luận mà nặng tính kinh nghiệm;
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương mới chỉ dừng lại ở cái vỏ bên ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chỉ dừng lại xem xét trong lĩnh vực lưu thông mà chưa quan tâm đến các hoạt động khác của nền kinh tế;
Quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp tạo ra trong lưu thông là do mua rẻ bán đắt là không chính xác;
Đánh giá sai lầm vai trò vị trí của các ngành nghề kinh tế trong xã hội (coi trọng quá cao thương nghiệp, xem thường công nghiệp…);
Chưa thấy được các quy luật kinh tế khách quan chi phối đời sống kinh tế.
Câu 8: Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản (tầng lớp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.
- Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện tượng kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất.
- Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở các nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau. Ví dụ: ở Pháp chủ nghĩa trọng thương kỹ nghệ Pháp, ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim, ở Anh là chủ nghĩa trọng thương trọng thương mại.
Tóm lại, chủ nghĩa trọng thương ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận còn đơn giản thô sơ, nhằm thuyết minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của chính sách cương lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ trong điều kiện lịch sử lúc đó.